Thấm nhuần nguyên tắc của một Đảng cầm quyền theo chỉ dẫn của V.I.
Lênin: “Sống trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng của quần chúng. Biết tất cả.
Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng, giành được lòng tin tuyệt đối của
quần chúng”(1), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta đại biểu
cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ
không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”(2).
Sự thống nhất biện chứng, phù hợp lợi ích giữa Đảng với nhân dân; giữa Đảng với
giai cấp công nhân và dân tộc là bản chất của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân - cội nguồn sức mạnh nội lực của Đảng ta. Vì thế, gắn bó mật thiết
với nhân dân là một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng
Đảng Mác-xít, là yêu cầu khách quan, nhất quán đối với Đảng cầm quyền, là thiết
thực dựa vào nhân dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Qua đó, góp phần chống sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò tiền
phong.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân vì dân là chủ”(3)và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp,
vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”, cho nên mỗi cán bộ, đảng viên
phải thường xuyên gắn bó với nhân dân và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân. Theo Người, để thực hiện tốt vai trò làm chủ, mỗi người dân
cần phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình và Đảng, Chính phủ có
trách nhiệm tạo điều kiện để nhân dân học tập nâng cao trình độ chính trị, tri
thức khoa học, năng lực làm chủ. Cụ thể, Đảng, Chính phủ phải: 1) Tạo điều kiện
để nhân dân học tập nâng cao trình độ chính trị, tri thức khoa học, năng lực
làm chủ để thực hiện tốt vai trò làm chủ. 2) Chú trọng công tác cán bộ - coi đó
là “gốc của mọi công việc”, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa
hồng, vừa chuyên, xứng đáng là người “công bộc” trung thành của nhân dân. 3)
Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, với bất cứ việc to, việc nhỏ thì
“sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong
quần chúng ra,trở lại nơi quần chúng”(4). 4) Phục vụ phải trên
tinh thần: “Luôn đặt lợi ích của nhân dânlên trên hết; liên hệ chặt
chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải
thích cho nhân dânhiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình
trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình
mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải làm gương, cần kiệm liêm chính,
để nhân dânnoi theo”; “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân
dân”(5), để nhân dân tin yêu và gắn bó. 5) Để hoàn thành nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội mà Tổ quốc và nhân dân giao
phó, mỗi người “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm”(6)và chăm lo những việc nhỏ, cần thiết cho đời sống
hàng ngày của nhân dân.
Muốn phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân để huy động “tài dân,
sức dân để làm giàu cho dân” như Người đã nói, thì càng phải hướng về cơ sở,
gần gũi và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Cán
bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân, vì
“dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì?
Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”(7).
THẤM NHUẦN LỜI BÁC DẶN GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần 90 năm xây dựng
và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã chứng minh trên thực tế, gắn bó
mật thiết với nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng. Xuyên suốt
mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, Đảng ta đã luôn gắn bó mật thiết với nhân dân và
phát huy dân chủ đến cao độ để động viên tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, gắn bó mật thiết với nhân
dân là cội nguồn sức mạnh nội lực của Đảng, là quy luật tồn tại, phát triển và
hoạt động của Đảng Cộng sản, là nhân tố đảm bảo sự thành công của toàn bộ sự
nghiệp cách mạng. Do đó, tăng cường củng cố mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng với nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác -
Lênin về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đảm bảo nguồn sức mạnh nội lực vô tận để
Đảng hoàn thành trọng trách vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ trung
thành của nhân dân.
Bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam khác với các đảng
phái chính trị khác là ở chỗ “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài” và cán bộ, đảng viên của Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày
tớ trung thành của nhân dân. Vì thế, khi cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá
nhân, lãng phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng, nói không đi đôi với làm thì họ
đã làm mất uy tín, danh dự của Đảng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng
và khi đó, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân tan vỡ, sức mạnh
và vai trò lãnh đạo của Đảng vì thế cũng không còn.
Sự thống nhất biện
chứng, phù hợp lợi ích giữa Đảng với nhân dân; giữa Đảng với giai cấp công
nhân và dân tộc là bản chất của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
- cội nguồn sức mạnh nội lực của Đảng ta.
|
Trong hơn 30 năm đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng,
bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng, thì tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với những biểu hiện: quan liêu, cửa quyền,
tham ô, tham nhũng, sách nhiễu dân, nhóm lợi ích… đã trở thành vấn nạn trong hệ
thống chính trị. Ở nhiều nơi, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm, tệ nạn
nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân, nhất là “tham nhũng vặt” vẫn còn không
ít ở địa bàn cơ sở, đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Đó không chỉ là trở lực đối với sự phát triển bền vững của đất nước mà còn làm
xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên suy thoái này đã quên rằng, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân
dân là người chủ” thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy
tớ cho dân, mà đầy tớ là “công bộc” của dân - nội hàm là hết lòng, hết sức gánh
vác việc nước, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, chứ không phải là “ăn trên
ngồi trốc”, là “cha mẹ dân”.
Đánh giá về sự nguy hại của thực trạng này,
Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp,
tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hoá, hoặc đã thể chế hoá nhưng
chưa được thực hiện nghiêm túc... Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến để giải quyết kịp thời, có
hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân”(8); dân
chủ trong Đảng, vai trò giám sát, tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng
Đảng chưa thực sự được phát huy... Vì thế, Đại hội xác định, vấn đề có ý nghĩa
quyết định là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phải tiếp tục “tăng
cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”(9); “Tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(10)và
“tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh… xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng
dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm”(11).
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa”
trong nội bộ”cũng đã chỉ rõ một trong những biểu hiện suy thoái của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay là: “Không còn ý thức hết lòng vì
nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”; “quan liêu, xa
rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc
tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm
trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”; đồng thời
nhấn mạnh: “Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo
của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và tăng cường hơn nữa mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, các
cấp ủy đảng chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII
về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, với
Quy địnhvề “Những điều đảng viên không được làm”, với các quy định
về nêu gương. Đồng thời, phát huy vai trò người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị gắn với đấu tranh phòng,
chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát gắn với tự phê bình và phê bình thực chất, phát huy
dân chủ và đoàn kết, thống nhất nội bộ.
Hai là, thực hiện tốt quy chế dân chủ
ở cơ sở, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân để không chỉ nắm
vững tình hình, hiểu rõ tâm trạng, yêu cầu của nhân dân mà còn phát huy vai trò
của nhân dân trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới hình thức, nội dung và biện pháp để
tuyền truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, hiểu
biết pháp luật cho nhân dân, để nhân dân thực hiện tốt vai trò “là chủ”, “làm
chủ” của mình. Làm tốt công tác dân vận phù hợp điều kiện cụ thể của địa
phương, mỗi địa bàn cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” và dựa vào nhân dân để phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”,
chống đặc quyền, đặc lợi; đồng thời, trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham ô,
tham nhũng, làm giàu bất chính, xâm phạm lợi ích của nhân dân, dù đó là ai, giữ
chức vụ gì hay đã nghỉ hưu.
Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sâu sắc vị trí, vai trò to lớn
của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
|
Ba là, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hướng về cơ
sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân và thường xuyên
đối thoại, lắng nghe, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và
yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, gắn
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận
động, với“Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời
sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, địa bàn cơ
sở.
Bốn là, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, không để quyền làm chủ của nhân
dân chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà phải tạo điều kiện thực tế, có cơ chế cụ thể để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên tinh thần “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”. Coi sự đánh giá của nhân dân là thước đo chính xác, là
một trong những tiêu chuẩn đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các
cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi mặt công tác, trong quy hoạch và
bổ nhiệm cán bộ; nhất là trong chuẩn bị nhân sự cho đại hội Đảng các cấp và Đại
hội XIII của Đảng. Đồng thời, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia
thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và thiết thực không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân.
Năm là, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến của cá nhân và tập thể
trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phòng và
chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, thống nhất giữa nói đi đôi
với làm, nói ít, làm nhiều, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
đảng viên nói chung, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng, để
tạo sự lan tỏa cộng đồng trên tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”; đồng thời, khắc phục những hạn chế, yếu kém, sơ hở trong công tác cán bộ,
để lựa chọn, quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm những cán bộ đủ đức đủ tài theo
tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ”.