Bảo vệ người tố cáo, phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực - Một số vấn đề đặt ra khi xây dựng Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2030
1. Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Đó là quan điểm và mục tiêu của Chính phủ trong công tác phòng, chống tham nhũng, thể hiện rõ trong Nghị quyết số 21/NQ-CP ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Chiến lược đề ra 05 nhóm giải pháp cơ bản: (i)Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật; (ii) hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật; (iii) hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh công khai, minh bạch; (iv) nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện và xử lý tham nhũng; (v) nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Trong đó, tại nhóm giải pháp thứ năm, việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được xác định là nhiệm vụ trọng tâm.
Ngày 18/12/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2151/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng (UNCAC). Ngày 30/12/2020, Ban Chỉ đạo tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện UNCAC đã ban hành Quyết định số 560/QĐ-BCĐTKCLQG về Kế hoạch tổng kết. Ngày 08/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP về Hội nghị Chính phủ với địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2023 đã đề ra nhiều nhiệm vụ; trong đó có nội dung khẩn trương hoàn thiện, ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2030. Theo đó, không chỉ cơ chế bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng mà bảo vệ người phản ánh, kiến nghị về hành vi tham nhũng vẫn tiếp tục là nhiệm vụ cần được nghiên cứu, hoàn thiện.
2. Điều 30 Hiến pháp 2013: “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”. Hiến pháp 2013 đã mở rộng phạm vi chủ thể của quyền tố cáo từ “công dân” sang “mọi người”, theo đó bất cứ ai thực hiện tố cáo theo đúng pháp luật Việt Nam đều được bảo vệ.
Nhìn lại từ giai đoạn 1 thực hiện Chiến lược, trong danh mục 70 nhiệm vụ cụ thể về xây dựng thể chế của Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng, liên quan đến nhiệm vụ này, Kế hoạch thực hiện Chiến lược giai đoạn 1 (2009-2011) đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Quy chế bảo vệ người tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng do Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Luật Tố cáo năm 2011 lần đầu tiên đã dành một chương quy định về bảo vệ người tố cáo. Chế định này bao gồm các quy định cụ thể về phạm vi, đối tượng và thời hạn bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ; bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo; bảo vệ người tố cáo tại nơi công tác, làm việc; bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo. Tuy nhiên, pháp luật giai đoạn này (i) chưa quy định rõ về mặt nguyên tắc, hoặc chưa xác định rõ tiêu chí của cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo; (ii) Quy định về nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ còn bất cập, thiếu thực tế, khả thi và chưa thể hiện trách nhiệm chính cũng như sự chủ động của nhà nước trong bảo vệ người tố cáo; (iii) chưa đưa ra được nguyên tắc xác định thời điểm mà người tố cáo bắt đầu được bảo vệ; chưa xác định được nhu cầu bảo vệ người tố cáo trong từng giai đoạn; (iv) chưa có quy định cụ thể về các hành vi vi phạm và hướng dẫn việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ người tố cáo...
Khắc phục những hạn chế đó, sang đến giai đoạn 3 thực hiện Chiến lược, Luật Tố cáo năm 2018 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 5. Luật gồm 09 chương với 67 điều đã dành một chương (Chương VI) quy định về bảo vệ người tố cáo với nhiều điểm mới, cụ thể hơn. Luật Tố cáo năm 2018 đã định nghĩa rõ hơn về đối tượng, phạm vi bảo vệ người tố cáo, quyền của người được bảo vệ, cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và trách nhiệm của các cơ quan này. Từ Điều 50 đến Điều 55 của Luật Tố cáo năm 2018 quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục bảo vệ khi người tố cáo có văn bản đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ. Đây là điểm mới quan trọng, quy định rõ trách nhiệm của người giải quyết tố cáo và cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo.
Về các biện pháp bảo vệ, so với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 quy định 03 biện pháp bảo vệ đó là: Biện pháp bảo vệ bí mật thông tin (Điều 56); Biện pháp bảo vệ vị trí công tác, việc làm (Điều 57); Biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm (Điều 58). Trong đó, nội dung bảo vệ của từng biện pháp được quy định bổ sung thêm để đảm bảo người tố cáo được bảo vệ tốt nhất về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình như: lược bỏ họ tên, địa chỉ, bút tích, các thông tin cá nhân khác của người tố cáo ra khỏi đơn tố cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo để quản lý theo chế độ mật khi giao cơ quan, tổ chức, cá nhân xác minh nội dung tố cáo; Xem xét bố trí công tác khác cho người được bảo vệ nếu có sự đồng ý của họ để tránh bị trù dập, phân biệt đối xử;...
Nghị định số 31/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm của người giải quyết tố cáo khi nhận được văn bản đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ; hướng dẫn việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ người tố cáo.
Tuy nhiên, Luật Tố cáo năm 2018 không được coi là bộ công cụ chung để điều chỉnh các quan hệ về cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng ở Việt Nam. Quy định về áp dụng pháp luật về bảo vệ người tố cáo còn có sự “khu biệt” giữa pháp luật về tố cáo với pháp luật hình sự. Việc này cho thấy vấn đề bảo vệ người cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng trong pháp luật Việt Nam còn khá phức tạp, khi có sự tách biệt giữa tố cáo, tố giác, tin báo tội phạm, phản ánh, kiến nghị, báo cáo... về hành vi tham nhũng.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã đề cập đến nội dung bảo vệ người tố cáo tham nhũng tại mục III chương 3 “Phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng”. Theo đó, việc cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng không chỉ được thực hiện dưới hình thức tố cáo mà còn được thực hiện dưới hình thức phản ánh, báo cáo và người phản ánh, báo cáo, tố cáo về hành vi tham nhũng sẽ được bảo vệ. Điều 67 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo; Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. Do trình tự, thủ tục giải quyết được áp dụng như giải quyết tố cáo, phản ánh nói chung nên việc bảo vệ người tố cáo về hành vi tham nhũng cũng áp dụng theo các quy định về bảo vệ người tố cáo nói chung.
Mặc dù, các quy định về bảo vệ người tố cáo đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, song vẫn còn những bất cập hạn chế, “tình trạng để lộ lọt thông tin của người tố cáo; không ít trường hợp người tố cáo không được bảo vệ, bị trả thù, trù dập; các hành vi trả thù, trù dập chưa được phát hiện, xử lý nghiêm”.... “Cán bộ, đảng viên và người dân còn chưa an tâm, ngại đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên vi phạm”. Cụ thể như sau:
Một là, hiện chưa có văn bản pháp luật riêng quy định về bảo vệ người phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, công chức. Vấn đề bảo vệ người phản ánh tham nhũng được quy định lần đầu tiên trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Theo đó, việc bảo vệ người báo cáo, phản ánh tham nhũng được thực hiện theo Luật Tố cáo. Trong khi đó, kiến nghị cũng là một hình thức cung cấp thông tin về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, công chức thì chưa có cơ sở pháp lý bảo vệ người đó.
Hai là, pháp luật hiện hành không phân biệt hay đưa ra những điều kiện để một người tố cáo được bảo vệ. Theo quy định thì mọi người tố cáo đều có thể được bảo vệ. Điều này đảm bảo quyền con người, quyền công dân nhưng khó có tính khả thi trên thực tế. Hiện nay, tố cáo là vì động cơ cá nhân, thậm chí tố cáo không có cơ sở, chuyển từ khiếu nại sang tố cáo khá nhiều… Thực tiễn cho thấy ngoài nhóm đối tượng nêu trên còn có một số đối tượng cũng cần nhận được sự bảo vệ nhưng chưa được pháp luật quy định, đó là người bị nghi ngờ tố cáo, người cung cấp chứng cứ, thông tin cho người tố cáo thực hiện hành vi tố cáo (có thể gọi là người đồng tố cáo), người cung cấp thông tin, hỗ trợ tích cực cho các cơ quan thực thi pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm và người phản ánh (tố cáo nặc danh, nhà báo …)
Ba là, Luật Tố cáo hiện nay chưa quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ người tố cáo và việc triển khai các biện pháp bảo vệ trong từng giai đoạn của quá trình giải quyết tố cáo khi có hành động trả thù diễn ra trong mỗi thời kỳ này (giai đoạn tiếp nhận thông tin, nội dung tố cáo; giai đoạn thụ lý giải quyết tố cáo; giai đoạn sau khi có kết luận và thực hiện kết luận nội dung tố cáo). Về cơ bản, các quy định pháp luật hiện hành về những vấn đề này mới chỉ mang tính nguyên tắc và mới tập trung bảo vệ nhằm chống lại hành động trả thù của người bị tố cáo đối với người tố cáo mà chưa có quy định về bảo vệ trách nhiệm pháp lý cho họ.
Bốn là, pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về cơ chế bảo đảm bí mật danh tính người tố cáo và nội dung tố cáo. Quy trình giải quyết tố cáo trải qua nhiều công đoạn khác nhau, với nhiều cơ quan, cá nhân tham gia vào việc tham mưu, giải quyết dẫn đến việc không bảo đảm bí mật về danh tính cho người tố cáo; thiếu sự ràng buộc về trách nhiệm trong việc thực thi các biện pháp bảo vệ người tố cáo. Người có trách nhiệm giải quyết tố cáo thì không trực tiếp tham gia vào quá trình tiếp nhận, thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo. Người trực tiếp thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo thì không có quyền ra kết luận nội dung tố cáo, dẫn đến chất lượng giải quyết tố cáo hạn chế và ảnh hưởng đến sự an toàn của người tố cáo.
Năm là, pháp luật hiện hành chưa minh định về cơ chế phối hợp cũng như trách nhiệm cụ thể của các cơ quan trong việc chủ trì, phối hợp triển khai, thực hiện các biện pháp bảo vệ. Thêm vào đó, cũng chưa có quy định bắt buộc cá nhân, cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện các trách nhiệm của người bảo vệ, hoặc phải khôi phục những quyền lợi hay vị trí công tác, việc làm cho người tố cáo bị trả thù; chưa có cơ chế giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa người đề nghị, yêu cầu bảo vệ với người có trách nhiệm bảo vệ; giữa người có trách nhiệm, thẩm quyền bảo vệ với người bị cáo buộc trả thù, trù dập người tố cáo.
Sáu là, Luật Tố cáo hiện cũng chưa có các quy định về theo dõi, báo cáo, đánh giá tình hình bảo vệ người tố cáo; quy định về việc giám sát, kiểm tra công tác bảo vệ người tố cáo; quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình tiếp nhận, áp dụng các biện pháp; quy định về cơ chế khôi phục hậu quả và bồi thường thiệt hại.
3. Ở giai đoạn 2 thực hiện Chiến lược, theo tổng kết 05 năm thực hiện Luật Tố cáo năm 2011, các cơ quan có thẩm quyền đã tiếp nhận 699 đơn yêu cầu bảo vệ của người tố cáo. Trong đó, có tổng số 524 yêu cầu đề nghị bảo vệ danh tính; 63 người tố cáo yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe; 27 người tố cáo yêu cầu bảo vệ tài sản; 55 người tổ cáo yêu cầu bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác; 30 người tố cáo yêu cầu bảo vệ vị trí công tác, việc làm. Các cơ quan hành chính nhà nước đã xử lý được tổng số 221 yêu cầu. Trong đó, 201 yêu cầu được tiếp nhận tiến hành bảo vệ theo thẩm quyền; 20 yêu cầu đã chuyển cơ quan có thẩm quyền bảo vệ. Số yêu cầu, đề nghị bảo vệ của người tố cáo được các cơ quan xử lý và bảo vệ tương đối ít so với yêu cầu bảo vệ (221/669). Công tác phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ của các cơ quan có thẩm quyền còn lúng túng.
Liên quan đến bảo vệ người phản ánh, kiến nghị về hành vi tham nhũng, trong quá trình xử lý đơn yêu cầu của người phản ánh, kiến nghị, theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương thì chưa ghi nhận được đơn yêu cầu bảo vệ nào của người phản ánh, kiến nghị đối với vụ việc thuộc thẩm quyền.
4. Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngày 10/01/2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 27-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chỉ thị nêu rõ “Ban cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành liên quan chỉ đạo ban hành quy định và hướng dẫn thi hành Luật Tố cáo năm 2018 một cách cụ thể, chi tiết, đồng bộ, phân rõ trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân bảo vệ người tố cáo; tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết yêu cầu được bảo vệ của người tố cáo và có chế tài xử lý. Ban hành quy định về bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, cung cấp thông tin về những hành vi có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, công chức mà Luật Tố cáo năm 2018 chưa quy định”.
Phòng, chống tham nhũng phải gắn với vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và các quyền Hiến định khác. Bảo vệ người tố cáo, kiến nghị, phản ánh là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó nhà nước có vai trò và trách nhiệm chính. Trong nhà nước pháp quyền, bên cạnh việc tố cáo, các phản ánh, kiến nghị mang tính xây dựng của người dân dưới mọi hình thức cần phải được các cơ quan nhà nước tôn trọng, tiếp nhận, xem xét, giải quyết và bảo vệ. Việc tiếp nhận, xem xét và giải quyết các phản ánh, kiến nghị của người dân không chỉ đơn thuần là trách nhiệm phúc đáp của chính quyền mà còn là cơ hội để cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước phát hiện các hành vi tham nhũng, tiêu cực và nhìn nhận, đánh giá lại năng lực, hiệu quả quản lý điều hành và đạo đức công vụ, qua đó có giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Theo đó, bảo vệ người tố cáo, phản ánh, kiến nghị một mặt thể hiện trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, tài sản của công dân, mặt khác thể hiện cách tiếp cận mang tính chiến lược trong quản lý nhà nước, đó là khuyến khích công dân tham gia tích cực vào cuộc chiến chống lại những biểu hiện sai trái, nguy hại cho sự an toàn và phát triển của xã hội.
Trong thời đại công nghệ thông tin (4.0), các tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân về những hiện tượng tiêu cực, sai trái, tham nhũng sẽ ngày càng nhiều và đa dạng, đây là một nguồn thông tin rất hữu ích cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí của Đảng và Nhà nước ta. Vì thế, để khuyến khích mọi công dân tham gia vào việc phát hiện, phản ánh các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi vi phạm pháp luật về tham nhũng, tiêu cực của cán bộ công chức nói riêng, trong thời gian tới, Nhà nước cần hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo, cũng như bảo vệ người phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực.
Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng với 03 giai đoạn đã khép lại. Việc tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện UNCAC cũng đã được thực hiện nhằm đánh giá toàn diện việc tổ chức triển khai thực hiện; đánh giá mức độ đạt được mục tiêu; việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Chiến lược và Kế hoạch thực thi UNCAC trên phạm vi cả nước kể từ khi ban hành Chiến lược đến nay; làm rõ những kết quả đạt được, ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, yếu kém, vướng mắc, khó khăn và nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; từ đó kiến nghị các nguyên tắc mục tiêu, giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện cho giai đoạn 2030. Với nhiệm vụ bảo vệ người tố cáo, phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực thì những phương án được đưa ra cần cân nhắc đảm bảo có lộ trình, tính khả thi, phù hợp:
Phương án 1. Trước mắt, ban hành văn bản tầm Nghị định quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết phản ánh, kiến nghị. Văn bản này quy định thống nhất về tiếp nhận, giải quyết tất cả các đối tượng của phản ánh, kiến nghị nói chung, trong đó có phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực. Lồng ghép trong văn bản này có phần quy định về bảo vệ người phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực.
Phương án 2. Sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo năm 2018 và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Trong đó, sửa đổi, bổ sung đối tượng và phạm vi bảo vệ (Điều 47) theo hướng quy định rạch ròi đối tượng được bảo vệ và phạm vi bảo vệ. Đối tượng được bảo vệ ngoài các đối tượng như Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cần bổ sung thêm người (1) phản ánh, (2) kiến nghị về các hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực. Đây là giải pháp có thể thực hiện trong khoảng 5 năm tới.
Phương án 3. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng về bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tiêu cực (trong đó có người phản ánh, kiến nghị về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực). Đây là giải pháp lâu dài.
Nguồn: Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra – Thanh tra Chính phủ”